- Tính chất chủ điệu nổi bật với giai điệu chính, các câu chạy thường xuyên nằm
ở bè cao. Bè trầm đóng vai trò xây dựng hợp âm, đệm cho bè giai điệu.
- Gam thứ được sử dụng chủ yếu là thứ hòa thanh, ít dùng thứ tự nhiên.
- Cách phát triển âm nhạc guitar trong thế kỷ này chủ yếu dựa vào cấu trúc và sự tiến hành chuyển động về hòa thanh. Cách tiến hành hòa thanh thường sử dụng âm sớm, muộn nên các công năng hòa âm thường gối lên nhau, liên kết theo dạng mắt xích.
Để thể hiện rõ ràng, chính xác về hòa âm trong thời kỳ này, người nghệ sĩ cần điều khiển lực các ngón bàn tay trái một cách độc lập để thực hiện đồng thời hai động tác: thả những ngón tay bấm nốt nhạc của hợp âm cũ và giữ những nốt nhạc liên quan đến hợp âm mới. Sự điều khiển kỹ thuật bàn tay trái giúp cho tác phẩm không bị lẫn về hòa âm dẫn đến thể hiện nội dung nghệ thuật của tác phẩm được mạch lạc.
Các ngón bấm bàn tay trái phải đảm bảo hòa âm đi đúng theo ví dụ thực tế trên. Trong trường hợp thực hiện hợp âm G xong, không buông nốt rê thì âm vang dư còn lại của nốt này sẽ hòa vào hợp âm Em tạo thành Em7, hay nốt si buông của hợp âm Em không được ngắt sẽ kết hợp với hợp âm Dm7 vào tạo thành hợp âm có chức năng mới, khác so với ý tưởng nghệ thuật của tác giả. Cách xử lý ngón bấm này diễn ra liên tục, nghiêm khắc trong suốt độ dài tác phẩm là một nhân tố quan trọng giúp nâng cao kỹ thuật bấm nhanh chóng, đáp ứng việc thể hiện nội dung nghệ thuật rõ nét, chính xác.
Tư duy bè ở thế kỷ XVI chủ yếu là ba bè song hành. Bởi sự nối tiếp liên tục của các hợp âm, nên người thể hiện muốn tạo nên những hợp âm tròn đầy phải chuyển động tay khéo léo kết hợp với lực bấm không quá mạnh (ảnh hưởng tốc độ cử động nhấc hợp âm trước, bấm hợp âm sau theo nhịp điệu bản nhạc) hoặc quá nhẹ (ảnh hưởng đến độ tròn của từng nốt nhạc cũng như cả hợp âm), khái niệm lực vừa đủ là sự thông hiểu, quen thuộc của người thể hiện với độ căng của dây, khoảng cách giữa dây với phím đàn và sức lực bản thân để điều chỉnh được.
Để thể hiện tốt nội dung đoạn nhạc, cần tạo nên những hợp âm vang, tròn, đủ nốt, hòa quyện, do đó độ khó của kỹ thuật chơi hợp âm tăng lên. Tay trái vừa phải chuyển động nhanh nhẹn vừa phải bấm chính xác vào đầu các ngón tay. Trong khi tay phải thực hiện kỹ thuật gảy kết hợp với làm sạch những tạp âm thừa (tiếng động phát ra khi chuyển động ngón bấm, hoặc những nốt nhạc của hợp âm cũ đang vang lên mà không phù hợp với công năng hòa âm của hợp âm mới) khi bắt đầu thực hiện những nốt nhạc mới. Kết hợp với trình tấu khúc nhạc chính xác nhịp, ít co dãn, có các điểm nhấn mạnh, tạo nên sự hòa quyện và liên tục một cách hợp lý trong thể hiện màu sắc hòa âm.
Muốn thể hiện tốt hòa âm đúng, đủ, sự hài hòa, hòa quyện giữa các bè, người nghệ sĩ phải liên tục thực hiện việc giữ nốt ngân và kiểm soát cường độ nốt nhạc của các bè chính xác như bản nhạc ghi, đây chính là điểm rất quan trọng cho sự phát triển hình thức âm nhạc sau này cũng như khả năng thể hiện tác phẩm.
Sự tư duy về bè, những màu sắc âm nhạc đa dạng, đan xen vào nhau cùng chuyển động, thể hiện sự phát triển rõ nét trong các tác phẩm ricercar.
Sự đối bè, các bè thay nhau chạy nhiều hơn.
- Kỹ thuật barre cũng sử dụng nhiều hơn, giúp mở rộng hòa âm. Việc tăng thêm số lượng nốt bấm trên một ngón đưa tới sự tự do cho các ngón còn lại, nhất là ở những khúc nhạc mà chỉ một ngón đã đảm nhận bấm đầy đủ hòa âm, từ đó tạo cho người sáng tác nhiều lựa chọn hơn trong cách xây dựng và phát triển hòa âm, với mục đích phục vụ cho tính chất nghệ thuật của tác phẩm.
John Dowland (1563-1626), Dowland’s first galliard, tr.6, 1. [phụ lục trang 163] Có thể nói, trong thời kỳ đầu, cách thể hiện nội dung nghệ thuật của tác phẩm, đòi hỏi trình độ kỹ thuật nhất định của người nghệ sĩ.